Lê Duẩn và Trung Quốc
Lê Duẩn, Tổng bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam là một khuôn mặt về mưu mô và thao lược có lẽ chỉ đứng
sau ông Hồ Chí Minh. Đó là một trong những lý do Hồ Chí Minh chọn ông làm Bí
thư thứ nhất sau cuộc cải cách ruộng đất nhiều tai tiếng. Là một người cộng sản,
Lê Duẩn kiên trì theo đuổi đường lối của Hồ Chí Minh là thống nhất Việt Nam và
đặt cả nước dưới chế độ cộng sản. Ông đã chống lại một cách có kết quả chính
sách của Mao Trạch Đông không muốn thấy miền Bắc chiếm miền Nam dù bằng
hiệp thương bầu cử hay bằng vũ lực. Đối với Trung Quốc một Việt Nam chia đôi,
miền Bắc không thể mạnh để thành một mối lo cho Trung Quốc, đồng thời làm trái
độn ở biên giới phía Nam giúp Trung Quốc tránh sự tiếp cận với các lực lượng
quân sự Hoa Kỳ.
Từ khi bị áp lực của
Trung Quốc ký Hiệp định Geneve chia đôi dất nước, Lê Duẩn thấy rõ chính sách
của Trung Quốc đối với Việt Nam trong hơn một ngàn năm qua không có gì thay
đổi. Thay đổi chăng là thay đổi lối nói mồm miệng, từ “thiên triều và thuộc
quốc” thành “anh em trong khối xã hội chủ nghĩa” môi hở răng lạnh giả dối.
Theo hồi ký “Cuối đời nhớ
lại” của ông Nguyễn Thành Thơ một đảng viên từng có chân trong Trung ương Đảng
ghi lại rằng, khoảng cuối năm 1978 khi tình hình biên giới Việt – Campuchia và Việt –Trung căng thẳng, quân lính Campuchia
thường vượt biên giới cướp của và giết người mà Việt Nam không có đối sách gì.
Trong một dịp Tổng Bí thư Lê Duẩn đi thăm huyện Cần Giờ tháp tùng bởi Huyện ủy
và 30 cán bộ cao cấp khác, Nguyễn Thành Thơ ghi:
“Lê Duẩn nói ‘Các anh có
gì hỏi tôi giải đáp’ . Anh em phấn khởi rộ lên ‘Xin hỏi K nó quấy rối biên giới
ta, tàn sát cướp phá rất dã man điên cuồng, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng
tôi khó hiểu’. Anh Lê Duãn trả lời ‘Các đồng chí hỏi đúng là một tình hình cả
nước đều quan tâm, chúng tôi đau đầu lắm ngủ không được, không phải là vấn đề
Khmer đỏ, vấn đề Pôn Pốt mà là vấn đề ai đằng sau Khmer đỏ, Pôn Pốt. Lần này ta
có đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc
đánh ta thôi, nhưng ta không chiếm K, Trung Quốc cũng không chiếm ta.”
(Cuối Đời Nhớ Lại của Nguyễn Thành Thơ)
(Cuối Đời Nhớ Lại của Nguyễn Thành Thơ)
Nhưng để hiểu trọn vẹn cái nhìn của Lê Duẩn đối với Trung Quốc trong suốt thời gian từ những năm 1949 sau khi Mao chiếm Trung hoa lục địa thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, chúng ta cần đọc bài nói chuyện của Lê Duẩn với các tướng lãnh quân đội cộng sản Việt Nam (?) vào một thời điểm trong năm 1979 sau khi Trung Quốc tấn công vào biên giới Việt Nam (Bài nói chuyện của Lê Duẩn năm 1979) . Bài nói chuyện này được lưu trữ tại Thư viện Quân đội Nhân dân ở Hà Nội và do Christopher Goscha có được và dịch ra Anh ngữ cho Chương trình Lịch sử quốc tế về Chiến tranh Lạnh (Cold War International History Project – CWIHP) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Woodrow Wilson ở Washington D.C. [TBN: 1. giáo sư Gosha tốt nghiệp tiến sĩ sử học đại học Sorbonne, Paris chuyên nghiên cứu lịch sử cận đại các nước Đông Nam Á.
Chúng ta đang nghiên cứu một bài nói chuyện của một Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam. Ngôn từ trong những đoạn trích dẫn sau là ngôn từ của một lãnh tụ cộng sản Việt Nam sau khi vừa chiến thắng Hoa Kỳ, có lúc cường điệu và tự phụ. Cốt lõi ở đây là chắt lọc cái nhìn của ông Lê Duẩn đối với Trung Quốc để rút ra những kinh nhiệm đáp ứng trong hoàn cảnh Việt Nam đang bị áp lực nặng nề của Trung Quốc]
Lê Duẩn cho biết sau Hiệp
định Geneve và sau khi không có hiệp thương chuẩn bị bầu cử như Hiệp định dự
liệu, Trung Quốc gây sức ép cho Bắc Việt Nam không được khởi động cuộc chiến
tranh tại miền Nam, nhưng đảng cộng sản Việt Nam vẫn cương quyết phát động cuộc
chiến. Lê Duẩn không nói ra, nhưng ai cũng biết Đảng Cộng sản Việt Nam có thể
làm vậy vì có hậu thuẫn của Liên Xô.
Lê Duẩn nói với các cán
bộ:
“Khi chúng ta ký Hiệp
Định Geneve, rõ ràng là Chu Ân Lai đã [ép] chia đất nước ta làm hai. Sau đó ông
ta gây sức ép buộc chúng ta không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam. Họ
ngăn chúng ta đứng lên nhưng họ không thể làm gì để ngăn cản chúng ta”
Theo Lê Duẩn, sau khi miền Bắc đã phát động chiến
tranh du kích tại miền Nam, biết không ngăn được nên Mao Trạch Đông đổi cách
suy nghĩ, lợi dụng cuộc chiến tại miền Nam để đưa quân vào Bắc Việt dòm ngó,
chuẩn bị cho chương trình xâm lấn Việt Nam về sau:
Trích bài nói của Lê
Duẩn:
“Sau khi chúng ta chiến
đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên
Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân
đội đến giúp chúng ta xây dựng đường sá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu
tình hình đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng
xuống khu vực Đông Nam Á. Không có lý do nào khác. Chúng ta biết rõ ý đồ này,
nhưng phải cho phép họ vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của
họ đã đến cùng với súng đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.
Sau đó, Mao bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông
ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ. Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu
cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng
tôi đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu. Tôi
đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và
âm mưu đó ác độc như thế nào.”
Năm 1960 khi chiến tranh
du kích tại miền Nam bắt đầu tăng cường độ, tại đại hội 3 của Đảng Cộng sản
Việt Nam, [TBN: từ 5-10/9/1960 tại Hà Nội, Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất
Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn giữ danh vị Chủ tịch Đảng.] Trung quốc đã thuyết phục Đảng Cộng sản Việt Nam
khuyến cáo Pathet Lào trả hai tỉnh giáp biên giới Việt Nam cho chính phủ
Vientaine, nói là để tránh Mỹ đổ quân vào Lào, nhưng ý đồ thật của Mao là cắt
tay cắt chân của Việt Nam, và sau này dùng chi viện rộng rãi mua chuộc Lào bủa một gọng kềm bên
trái cùng với gọng kềm bên phải của căn cứ hải quân Yulin nằm ở cực nam đảo Hải
Nam làm hai gọng kềm kẹp Việt Nam vào giữa.
Lê Duẩn nói với các cán
bộ của mình:
“Khi chúng ta chuẩn bị
chiến tranh du kích tại miền Nam sau khi ký Hiệp định Geneve, Mao Trạch Đông đã
nói với Đại hội Đảng của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào
chuyển hai tỉnh đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người
Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh này, một tình huống rất nguy hiểm theo cái nhìn của
Trung Quốc! Mao đã bức hiếp chúng ta và chúng ta đã phải làm điều đó.”
Lê Duẩn giải thích sở dĩ
Hoa Kỳ đổ quân vào miền Nam Việt Nam vì Liên Xô và Trung Quốc bất hòa nhau, và
chính sách của Liên Xô và Trung Quốc về Việt Nam đối nghịch nhau. Liên Xô muốn Hà Nội khởi động chiến tranh tại
miền Nam, Trung Quốc thì không muốn. Lê Duẩn dẫn chứng năm 1961 khi Liên Xô,
Trung Quốc, Việt Nam còn là một khối (TBN: lúc đó dấu hiệu bất hòa chưa hiện ra
bên ngoài) Tổng thống Kennedy đã không dám can thiệp vào Lào nên cùng với
Nga và Trung Quốc trung lập hoá Lào và lập Chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng tại Vientaine.
Hoa Kỳ và Trung Quốc có cùng mục tiêu trong việc trung lập hóa Lào, chủ yếu là
chắn con đường tiếp vận quan trọng từ bắc Việt Nam vào miền Nam để giảm thiểu
khả năng xâm lăng miền Nam của Bắc Việt.
Lê Duẩn nói:
“Nếu Trung Quốc và
Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta hay không.
Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa
Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà
họ đã đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp
Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn
công Lào nữa. Sau đó, khi Liên
Xô và Trung Quốc xung đột với nhau, Mỹ được Trung Quốc thông báo là họ có
thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ sự trả đũa của Trung Quốc.”
Trong một đoạn khác Lê
Duẩn phán đóan rằng nếu không có sự đồng ý của Trung Quốc, Hoa Kỳ đã không dám
gài mìn phong tỏa hải cảng Hải Phòng mùa hè năm 1972 và dùng B52 bỏ bom Hà Nội
tháng 12 năm đó.
Lời Lê Duẩn:
“… Tuy nhiên, Trung Quốc
và Hoa Kỳ đã thảo luận làm thế nào để đánh chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn
công bằng bom B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Rõ ràng là như thế..”
Buổi nói chuyện của Lê Duẩn đã giải thích tại sao Hà
Nội phát động cuộc chiến tranh vào các thành phố và trung tâm dân cư miền Nam
trong dịp Tết Mậu Thân. Cường độ và địa bàn tấn công, gồm cả tòa Đại sứ quán
Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm cho bộ tham mưu của tướng Westmoreland ngạc nhiên.
Ngạc nhiên không phải vì không đoán trước Bắc Việt sẽ tấn công. Tình báo Hoa Kỳ
đã ghi nhận sự chuyển quân của Bắc Việt. Ngạc nhiên vì tướng Westmoreland và Bộ
Quốc phòng Hoa Kỳ nghĩ rằng bộ đội cộng sản sẽ đánh mạnh vào các đơn vị quân
đội Mỹ sau Tết và trong dịp ngưng bắn Tết họ chỉ quấy phá nhỏ. [TBN: Victory At any Costs by Cecil B. Currey,
page 266-267].
Ngoài ra song hành với
cuộc tấn công Mậu Thân nhiều sư đoàn thiện chiến của Bắc Việt bao vây căn cứ
Khe Sanh, và các chiến lược gia Hoa Kỳ vẫn còn bình luận về mục tiêu chính của
Bắc Việt là thu đoạt một thắng lợi dứt điểm tại Khe Sanh như họ đã thắng trước
đây tại Điện Biên Phủ hay tấn công đồng loạt vào các trung tâm dân cư để tạo
một cuốc nổi dậy. Lê Duẩn cho thấy Hà Nội không có ảo tưởng hạ căn cứ Khe Sanh
trước hỏa lực của Hoa Kỳ. Bao vây Khe Sanh chỉ là kế “điệu hổ ly sơn”
[TBN: đúng hơn là “điệu trâu lên rừng”].
Hà Nội cũng không có ảo
tưởng gì nhân dân miền Nam sẽ nổi dậy. Vào
năm 1967 Hoa Kỳ có hơn 500 nghìn quân tại Việt Nam. Quân đội chính quy Bắc Việt
đã chạm trán với quân đội Hoa Kỳ trong thung lũng Ia Drang trong năm 1965 và
phải trốn qua biên giới Lào để khỏi bị tiêu diệt nên biết rằng không thể đụng
trận mãi với các sư đoàn quân Hoa Kỳ được. Lê Duẩn và Bộ Chính trị Đảng cộng
sản Việt Nam tính rằng nếu Hoa Kỳ đưa thêm quân vào Việt Nam thì trước sau Bắc
Việt cũng thất bại. Nên chiến lược của Lê Duẩn là đánh một trận xả láng vào các
thành thị miền Nam bất chấp quy ước, chấp nhận mọi tổn thất để tạo xúc động tâm
lý tại Hoa Kỳ để Hoa Kỳ ngưng tăng quân và dọn đường thương thuyết.
Mục tiêu của Lê Duẩn đã
đạt được. Bắc Việt đã tổn thất nặng nề về mặt quân sự, nhưng thắng lớn về mặt
chính trị. Tổng thống Johnson đã không gởi thêm quân theo yêu cầu của tướng
Westmoreland và đề nghị thương thuyết. Trớ trêu là lúc đó Trung Quốc ngăn cản
không cho Hà Nội thương thuyết. Trung Quốc hứa sẽ gởi thêm súng đạn, đồng thời
xúi dục Hoa Kỳ đổ thêm quân vào. Trung
Quốc muốn Việt Nam đánh để kiệt quệ đến người lính cuối cùng. (Cách nói khác:
Trung Quốc đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng)
Lời Lê Duẩn:
“Sau khi Mỹ đưa hàng trăm
ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đã phát động cuộc tổng tấn công vào
năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để đánh bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết
là làm thế nào để họ từ từ giảm leo thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng
ta chiến đấu chống một kẻ thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống
trị thế giới. Nếu chúng ta không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, thì
chúng ta sẽ thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để
làm nhụt ý chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với
chúng ta mà không cho phép họ đưa thêm quân.
Đến lúc Hoa Kỳ muốn
thương lượng với chúng ta, Đại sứ Trung quốc tại Hà Nội Ho Wei đã viết một bức
thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các anh không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ.
Các anh phải dụ quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam để đánh với họ”. Ông ta gây áp lực
với chúng ta làm cho chúng ta bối rối vô cùng. Đây không phải là vấn đề đơn
giản mà rất mệt mỏi. Chúng ta không nghe lời của Ho Wei. Chúng ta ngồi xuống ở
Paris. Trong thời gian đó, Trung Quốc đã thông báo với Mỹ: ‘Nếu các ông không
tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông muốn đưa vào Việt Nam bao
nhiêu lính, tùy các ông’.
Lê Duẩn cho biết rằng có
một lần Mao giả vờ không nhớ sử để cảnh cáo Lê Duẩn rằng, quân Nguyên, quân
Minh, quân Thanh bị Việt Nam đánh bại, nhưng quân Mao sẽ thôn tính Việt Nam, và
Lê Duẩn đã phản ứng bằng cách cảnh giác rằng Việt Nam cũng sẽ đánh thắng quân
Mao.
Lê Duẩn thuật lại cho các
cán bộ nghe một mẫu chuyện giữa ông ta và Trường Chinh với Mao và Đặng Tiểu
Bình tại Bắc Kinh năm 1963. “Trước khi
chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với
chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các
đồng chí biết điều này. Tôi là
Chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân
tiến xuống khu vực Đông Nam Á”. Ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm
nước ta và Đông Nam Á bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc
nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!
Cũng trong dip đó Mao hỏi
tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng
200.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Dân số của họ
bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3
triệu!
Mao nói: Như vậy là không
nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây
số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng
500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu
người?
Tôi trả lời: Khoảng 40
triệu!
Mao nói: Trời! Tỉnh Tứ
Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có
tới 90 triệu người. Tôi
cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!
Mao không hỏi thẳng về
Việt Nam, nhưng gián tiếp hỏi tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí
đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải
cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta
nói: “Và quân Minh nữa, phải không?”
Hiểu ý của Mao, tôi nói
[nửa đùa nửa thật]: “Đúng. Nếu các ông đánh chúng tôi chúng tôi cũng sẽ đánh
thắng các ông. Các ông có biết điều đó không?”
Qua bài nói chuyện của Lê
Duẩn chúng ta thấy Trung Quốc, dù thuộc thể chế nào, vương triều, dân chủ hay
cộng sản đều có mộng thôn tính Việt Nam. Và Việt Nam dù thuộc thể chế chính trị
nào cũng cảnh giác manh tâm của Trung Quốc.
Quá trình cảnh giác của
người cộng sản Việt Nam bắt đầu từ những năm 1954 khi Trung Quốc ép ông Hồ Chí Minh ký Hiệp Định Geneve chia đôi
đất nước. Và chính quyền hiện nay cũng có sự cảnh giác cao độ. Tuy nhiên, không gian xoay xở mỗi thời mỗi khác,
và cách đáp ứng của chính quyền hiện nay chưa được xem là thích ứng với hoàn
cảnh.
Thời đại của Hồ Chí Minh
Hà Nội dễ xoay xở hơn vì có Liên Xô đối trọng với Trung Quốc. Và cho đến năm
1975, Trung Quốc còn yếu kém về cả hai mặt kinh tế và
quân sự so với Hoa Kỳ.
Bối cảnh hôm nay khác
hẵn. Liên Xô sụp đổ Hà Nội phải dựa vào Trung Quốc hơn để tồn tại. Kinh tế
Trung Quốc hiện chỉ thua Hoa Kỳ, với một lực lượng quân sự hùng mạnh gấp nhiều
lần quân đội cộng sản Việt Nam. Về mặt lãnh đạo, Lê Duẩn vừa có tài thao lược
vừa có quyền quyết định (ngay cả khi ông Hồ Chí Minh còn sống vì được Hồ Chí
Minh tin cậy) nên tuy có lúc ông phải nhượng bộ áp lực Trung quốc, ông vẫn rất
cứng rắn trước các đòi hỏi quá đáng của Trung quốc. Sau khi Lê Duẩn chết
(7/1986) các Tổng bí thư kế tiếp không ai mưu lược và có nhiều quyền quyết định
như Lê Duẩn. Nhất là từ Đại hội 9 năm 2001 khi Nông Đức Mạnh lên Tổng bí thư, sự lãnh đạo tại Hà Nội càng ít bén nhạy hơn, và
hiện nay với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng không có gì khá hơn.
Về mặt chiến lược từ
tháng 4/2006 Hà Nội đã tìm cách xích lại gần Hoa Kỳ một cách dè dặt để tìm thế
đối trọng với Trung Quốc. (Quan Hệ Việt Trung 1991-2008). Nhưng về mặt chiến thuật cung cách đối đáp của
Hà Nội trước áp lực của Trung Quốc không thích hợp và được xem là nhu nhược đến
độ người ta nghi ngờ Trung Quốc đã nắm trọn Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
trong tay.
Nước nhỏ cạnh nước lớn
cẩn trọng về ngoại giao là cần, nhưng không được để cho sự cẩn trọng làm quốc
gia bại liệt. Phải biết phản ứng khi cần thiết. Không thể để cho Trung Quốc bắn
giết ngư dân hay cấm đánh cá trong vùng biển quốc tế mà không mạnh mẽ lên tiếng
hay đưa nội vụ ra trước Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc dù biết Trung Quốc sẽ
dùng phiếu phủ quyết. Không thể để cho tàu hải giám Trung quốc húc chìm thuyền
đánh cá của ngư dân Việt Nam mà không dám minh danh tố cáo Trung quốc mà chỉ
nói là “tàu lạ”. Không thể nể Trung Quốc mà không đưa vụ tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa ra trước Tòa án quốc tế trong khi Việt
Nam có nhiều bằng chứng pháp lý chủ quyền, dù biết rằng tòa án quốc tế không
thể thụ lý vì Trung Quốc sẽ không đồng ý kiện về chủ quyền đất đai. Việt Nam
cần nghiên cứu các án lệ kiện chủ quyền đất đai trên thế giới để chuẩn bị cần
làm gì để có nhiều may mắn thắng trước tòa quốc tế. Việc chính quyền Hà Nội vì
tế nhị ngoại giao không lên tiếng chính thức và kịp thời trước các vụ lấn đảo
lấn biển của Trung Quốc có thể là một bất lợi về sau. Và lệnh cấm nhân dân biểu
tình chống hành động xâm lấn của Trung Quốc cũng có thể là một bất lợi pháp lý
khác.
Trong bài nói chuyện Lê Duẩn có nói đến khung cảnh
quốc tế mới để chứng minh rằng Trung Quốc không thể đánh Việt Nam mà không bị
phản ứng của thế giới. Ông nói: “Bây giờ Trung
Quốc có âm mưu đánh nước ta để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại
hiện nay họ không thể đánh một cách dễ dàng. [Đầu năm nay] Trung Quốc chỉ đánh
Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên: “Không được đụng đến Việt Nam”!
Thời đại hiện nay không giống như thời xưa. Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với
nhau. Loài người vẫn chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng
đây là lúc mọi người đều muốn độc lập và tự do. Ngay cả trên các đảo nhỏ, người
dân cũng muốn độc lập, tự do.”
Bài rất quan trọng và rất hay. Xin phép chị cho tôi đưa về Blog của tôi. Cảm ơn.
Trả lờiXóaBạn cứ tự nhiên đưa về. Tôi nghĩ càng nhiều người đọc càng tốt.
XóaĐọc bài này càng chán ngán cho cái tâm và cái tầm của TBT đảng ta thời họ Nông cũng như thời ông Tiến sĩ lú hiện nay...
Trả lờiXóaNếu như thời đó không phải ông TBT Lê Duẩn thì nước ta đã là một khu tự trị của TQ rồi. Nhân dân ta phải biết ơn ông LD vì ông ấy biết lúc nào và điều gì phải nhượng bộ để có lợi cho đất nước, còn những điều gì có hại cho quyền lợi đất nước thì ông ấy dứt khoát không làm, còn TBT hiện tại thì chỉ có "vâng,dạ" dù cho mất nước đến nơi.
XóaBài viết ở phần đầu về cách chống tư tưởng TQ của Tổng bí thư Lê Duẩn rất hay nhưng về phần sau chị nói chẳng có tí đúng gì cả hoặc đôi khi có chút phần chống đối, phản động...Hiện tại, Việt Nam chẳng phải lệ thuộc TQ mà cũng chẳng sợ TQ.TQ bây giờ thật sự mạnh sao nó ko đem quân đánh VN như hồi năm 1979,sao ""vụ giàn khoan vừa rồi nó ko đem hải quân đánh luôn để chiếm Trường Sa luôn đi"".... Ở đây là vấn đề chính trị nên những người như em và như chị ở đây cũng chưa đủ tầm để hiểu hết và hiểu hết được giải quyết vấn đề của các nhà lãnh đạo đất nước... Người Việt Nam thì chẳng có ai sợ TQ cả.Chỉ cần khi "Tổ quốc gọi là chúng tôi sẵn sàng" chỉ có vậy thôi....
Trả lờiXóa