Nhân ngày 8-3 năm nay, xin mời các cụ đọc một bài "PHIẾM LUẬN" thay cho lời chúc của HP tôi. Bài tuy hơi dài, nhưng đọc và ngẫm nghĩ thấy tác giả phân tích hay, đọc không thấy chán.
PHIẾM LUẬN VỀ BÌNH ĐẲNG
GIỚI
Năm bảy phụ nữ đang ngồi
uống bia Huda bên dĩa mồi thịt vịt – nói là thịt nhưng chỉ còn lại xương. Họ
cầm ly đưa lên ngang mặt rồi chồm tới, đồng thanh la to: “dzô”. Từ dzô này mới
tới làng tôi khoảng cuối những năm 50 của thế kỷ trước, nó được số thanh niên đi
quân dịch ở trong Nam, giải ngũ, đem về làng.
Hơi men đã thấm, họ bỏ ly và đũa xuống bàn, đứng dậy dẹp ghế dành khoảng
trống làm sàn nhảy. Họ chen lách nhau, uốn éo thân mình, ngoắt mông qua ngoắt
mông về, hai tay gấp khuỷu, đưa lên đưa xuống, trông cũng khá điệu nghệ. Số chị
em này xấp xỉ 40, chồng con hẳn hoi, nếu không có kế hoạch sinh đẻ, mỗi người
cũng đã chín, mười đứa con.
Nhìn sô diễn này, tôi thấy phụ nữ quê tôi đã có nhiều thay đổi. Trước
đây, phụ nữ quê tôi cũng làm văn nghệ. Những đêm trăng giã gạo bên cối, những
buổi sáng mai đập đất trong vụ lúa vãi, những chuyến đò xuôi ngược buôn hàng
lên về chợ phiên Cam Lộ, chị em cất tiếng hò câu hát. Âm vang lan tỏa vào đất
trời, quyện lẫn trong sương sớm, trong gió chiều, mơn man trên mặt nước sông
gợn sóng lăn tăn. Những câu hò giã gạo, mái nhì, mái đẩy đối đáp qua về không
những giữa những người cùng giới mà còn giữa những người khác giới. Qua hò hát,
tình yêu chớm nở, nhiều cặp đã nên vợ nên chồng.
Ngày xưa ấy, hò hát đã quên mệt nhọc trong lúc làm việc, còn bây giờ hò
hát nhảy múa để tỏ bày cái sung sướng của mình; có thể lạm ngôn là xưa thì
“nghệ thuật vị nhân sinh” mà nay thì “nghệ thuật vị nghệ thuật”.
Bây giờ, phụ nữ có cuộc sống tương đối thoải mái. Việc bếp núc đã có bếp
điện, bếp ga; việc đồng áng đã có máy có máy cày, máy gặt, máy đập; việc xay
lúa giã gạo đã có máy xay – ít tốn sức nhiều trong lao động. Đi ra đường có
khẩu trang che miệng, che mũi, khăn trùm mặt. Lội xuống ruộng có dụng cụ bảo vệ
che kín tay chân. Vận chuyển phân tro, hàng hóa, lúa khoai, giống má,...từ nhà
ra đồng và ngược lại đã có xe kéo, xe máy, xe tải; đôi vai không còn gồng gánh
nặng nề, nhờ vậy, dáng đi, thế đứng, vóc người không bị biến dạng. Nếu một cô
gái phố và một cô gái quê chưng diện như nhau, người nhìn cũng khó phân biệt cô
nào là quê, cô nào là phố.
Phụ nữ thời nay được học hành. Trên những con đường quê vào giờ đến lớp
hay giờ tan học, từng đoàn học sinh trai gái có số lượng tương đương uốn lượn
trên xe đạp; hình ảnh đó trước đây không có. Đa số phụ nữ nông thôn bây giờ đều
qua trình độ trung học cơ sở.
Phụ nữ đã có những thay đổi tích cực về thể xác, trí tuệ và lối sống.
Được như vậy một phần nhờ những tiến bộ khoa học kỹ thuật, một phần nhờ tiến bộ
trong quan niệm nhân sinh của con người, một phần nhờ kết quả tranh đấu của các
phong trào nữ quyền, một phần nhờ kế hoạch gia đình ít con.
Nhàn nhã tạo cơ hội để phụ nữ mở rộng giao tiếp và hiểu biết. Ấy là điều
đáng mừng. Nhưng từ đó, cũng nẩy sinh nhiều điều ngoài mong muốn; tỉ lệ hỗn láo
với chồng, ngoại tình, đòi ly hôn cao.
Nhớ lại ngày xưa, phụ nữa chịu quá nhiều thiệt thòi trong đời sống. Năm,
sáu tuổi phải trông em cho cha mẹ đi làm kiếm sống; em lết, em trườn giữa nền
nhà bằng đất nện, lấm lem đất bụi, chị không lớn hơn em bao nhiêu, bồng em lên,
bẩn vấy đầy người, hông tréo, lưng ẹo. Mười hai, mười ba tuổi phải chăn bò chăn
trâu, dầm mưa dãi nắng, tóc vàng hoe, mặt mày đen thủi đen thui. Mười sáu, mười
bảy tuổi, cha mẹ gả chồng, không cần hỏi ý kiến. Đến nhà chồng, cặm cụi làm
việc. Cả ngày trên nương dưới ruộng, về đến nhà lo heo ca gà vịt. Tối đến lo
xay lúa giã gạo, 11 hay 12 giờ đem mới đi ngủ, 3, 4 giờ sáng phải thức dậy thổi
cơm – về mùa nắng, nhen được bếp lửa còn dễ, về mùa mưa, việc ấy khó khăn lắm;
rơm ướt củi ướt, lửa châm rồi mà chỉ có khói ngún, trún hơi cay vào mắt vào
mũi. Thì giờ nghỉ ngơi còn lại trong ngày rất ít, mà nào có yên! Hãy đọc những
ca dao sau đây để biết thảm cảnh của phụ nữ:
Đang khi lửa tắt cơm sôi,
Heo kêu con khóc, chồng đòi tòm
tem.
Bây giờ con đã nín êm
Heo no cơm chín tòm tem
thì tòm!
Do
quan niệm “con gái là con người ta”, là “vịt trời”, lớn lên bay mất, ít ai đầu
tư cho con gái học hành. Trong việc hôn nhân, con gái được coi như hàng hóa;
điều đó được phản ánh trong hai từ “bán gả”; gia đình nhà gái bắt làm rể nhiều
công, đòi nhiều của cưới. Ngay đến bây giờ, chỉ hai từ “hỏi vợ” cũng nói lên
vai trò vẫn còn trội bật của phái nam.
Tuy
vậy, hoàn cảnh nữ giới trong xã hội Việt Nam còn dễ thở hơn ở các nước Hồi
Giáo; kinh Koran và thánh luật Sharia quy định những điều luật dành cho phụ nữ
Hồi Giáo rất nghiệt ngã:
- Phụ nữ phải mặc y phục che kín toàn thân khi ra
đường, không để cho nam giới thấy bất cứ một bộ phận nào của cơ thể
- Phụ nữ phải tuyệt đối phục tùng đàn ông, nếu
không, đàn ông có quyền ruồng bỏ và đánh đập.
- Phụ nữ được xem như công cụ đẻ con và thỏa mãn
dục tính đàn ông.
- Phụ nữ chỉ được lấy một chồng, trong khi đàn
ông có quyền lấy nhiều vợ. Đàn ông không bị gán tội ngoại tình, còn phụ nữ
ngoại tình bị xử rất nặng: đem bêu nơi công cộng cho mọi người ném đá đến lúc
nào chết thì thôi.
Vậy mà phong trào đòi nữ quyền không phải khởi xướng do phụ nữ Hồi Giáo.
Phụ nữ ở Mỹ rồi ở Âu Châu đã làm bùng phát phong trào. Vào thế kỷ XIX, công
nghiệp phát triển, các chủ xưởng ở Mỹ dùng nhiều phụ nữ trong nhà máy, trả
lương bổng rẻ mạt mà bắt làm việc liên tục nhiều giờ. Không chịu nổi, phụ nữ đã
liên kết với nhau đứng lên đòi tăng lương, đòi giảm giờ làm. Rồi sau đó trong
Thế Chiến I, chồng con họ phải ra trận, đời sống tình cảm thiệt thòi mất mát,
họ vùng dậy đòi trả chồng con về. Phong trào nữ quyền cứ vậy lớn mạnh dần. Tiếp
đến, phụ nữ đòi quyền bầu cử rồi ứng cử, nghĩa là đòi cơ hội tham gia quyền
quản lý xã hội.
Phụ nữ Việt Nam cũng không khởi xướng phong trào đòi nữ quyền. Trước đây,
phụ nữ Việt Nam sống an phận, xem những công việc trong gia đình dù nặng nhọc
đến mấy cũng thuộc thiên chức của mình. Ngoài công việc gia đình, phụ nữ Việt
Nam, gặp trường hợp, cũng tham gia việc nước: khi thì lặng lẽ làm tròn công
việc hậu phương lúc chồng con ra tiền tuyến, khi thì anh hùng “giặc đến nhà đàn
bà cũng đánh” như phất cờ khởi nghĩa đuổi giặc ngoại xâm; dù vậy, phụ nữ không
vùng dậy đòi bình quyền với nam giới. Phụ nữ Việt Nam đòi nữ quyền là do chịu
ảnh hưởng của phương Tây. Phong trào nữ quyền du nhập vào Việt Nam vào nửa đầu
thế kỷ XX và phát triển cho đến ngày nay.
Bình đẳng giới chú trọng vào việc tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia
vào những lãnh vực mà trước đây họ không bước vào. Phong trào đòi bình đẳng
giới đã gặt hái được nhiều tiến bộ vừa trong gia đình vừa ngoài xã hội. Về mặt
kinh tế và chính trị, nhiều phụ nữ đã nắm giữ những vai trò lãnh đạo.
Điều quan trọng là nên hiểu bình đẳng giới như thế nào. Về trí
tuệ, giữa nữ giới và nam giới, chưa thể khẳng quyết bên nào trội hơn; nhưng về
thể chất, rõ ràng là nam giới trội hơn. Ngoài thua kém về sức mạnh, cơ thể phụ
nữ còn chịu những sự vận hành sinh lý đặc thù do Tạo Hóa định đoạt: kinh
nguyệt, sinh đẻ, nuôi con,...Tạo Hóa sinh ra đàn ông, đàn bà để ghép cặp, bổ
túc cho nhau mà hoàn chỉnh. Muốn tồn tại, trong việc làm, đàn ông làm, đàn bà
phụ; trong lưu truyền giống nòi, đàn bà giữ vai trò chính, đàn ông đóng vai trò
phụ. Khi tạo ra loài người, Tạo Hóa vốn công bằng. Mất công bằng là do con
người gây ra. Khi mưu sinh, đàn ông làm ra của cải vật chất nhiều hơn, từ đó,
đàn ông cho mình quan trọng và đàn bà cũng chấp nhận như vậy. Đàn ông “lên
mặt”, coi thường đàn bà. Do phụ thuộc kinh tế, đàn bà mất dần tiếng nói trong
gia đình, rồi trong cộng đồng. Sự bình đẳng nguyên sơ mất theo.
Đừng nghĩ nam nữ bình quyền nghĩa là đàn ông làm được việc gì thì đàn bà
làm được việc ấy và ngược lại mà phải nghĩ nam nữ bình quyền là hai bên bổ túc
để đi đến hoàn chỉnh. Cái gì đàn bà không làm được thì đàn ông làm, cái gì đàn
ông không làm được thì đàn bà làm. Cái gì mà hoặc đàn ông không làm được hoặc
đàn bà không làm được, nhưng phải làm bất đắc dĩ thì cần tạo cơ hội tối đa và
thành quả công việc chỉ xét ở mức tương đối. Nếu có trường hợp thành quả đạt
mức tuyệt đói, ấy là ngoại lệ.
Ở nước ta, do đặc thù văn hóa, ở một vài phương diện, bình đẳng giới cũng
cần được xem lại. Xã hội chúng ta là xã hội phụ hệ. Trong liên hệ máu mủ, chúng
ta phân biệt nội ngoại rõ ràng. Con cái sinh ra lấy họ cha. Tính về bên cha – bên
nội, cùng một dòng tộc không thể tạo lập hôn phối, nhưng tính về bên ngoại, con
cháu cùng ông tổ 3 đời hay 4 đời có nơi, có khi cũng được phép lấy nhau làm vợ
làm chồng mà phong tục tập quán không cấm đoán. Bên nội trọng hơn bên ngoại;
con trai trọng hơn con gái. Đúng vậy thôi, việc phụng dưỡng cha mẹ giao cho con
trai trách nhiệm chính, đặc biệt là con trai mà cha mẹ chọn ở cùng. Phụng dưỡng
lúc còn sống cũng như lúc đã mất. Lúc sống thì nuôi dưỡng; lúc chết thì kỵ,
giỗ, tế, cúng, chăm sóc mồ mả.
Trong
kỵ, giỗ, cúng, tế, người Việt quan niệm linh hồn người chết không về ngự trên
bàn thờ nhà con gái được, nơi đây dành cho tổ tiên gia đình nhà chồng của con
gái rồi. Vì vậy, khi chết đi, người ta để lại ruộng đất, nhà cửa, có thể bạc
vàng... làm của hương hỏa cho con trai. Trong trường hợp không có con trai,
người ta không giao của hương hỏa cho con gái mà giao cho cháu trai gọi bằng
bác hay bằng chú. Hiện nay, lấy cớ nam nữ bình quyền, ở nhiều gia đình, con gái
cải gái rồi vẫn trở về đòi phân chia của hương hỏa với con trai. Người chết
không có con trai, con gái dành quyền thừa hưởng của hương hỏa. Nhiều tranh
chấp dạng này đã xảy ra trong cộng đồng.
Do quan niệm hưởng lễ khi thờ cúng, người ta đi đến quan niệm trọng nam
khinh nữ: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (về con cái, một trai đã gọi là
có, mười gái vẫn gọi là không).
Trọng nam khinh nữ đi vào tập quán, đi vào thiết chế lễ nghi. Ví dụ, khi
cha mẹ mất, con trai thọ đại tang 2 năm, con gái đã lấy chồng chỉ thọ tang cơ
niên một năm. Cháu để tang chú bác một năm, nhưng để tang cậu chỉ 5 tháng. Bất
công vậy mà chưa có trường hợp phụ nữ lên tiếng nào! Có lẽ đó không phải quyền
lợi thiết thân chăng?
Phụ nữ cần hiểu bình đẳng giới phải thể hiện trên đủ mọi mặt của đời sống.
Chuyện “để tang” như vừa nói ở trên không còn hợp với bây giờ nữa. Những quy
định ấy đã có cách đây cả mấy trăm năm, được ghi tại sách “Thọ Mai gia lễ” do
Tiến Sĩ Hồ Sĩ Tân (1690 – 1760) hiệu Thọ Mai biên soạn tập hợp phong tục cư
tang đã có trước và cùng thời với ông.
Thiết
nghĩ để bảo đảm bình đẳng giới, bên cạnh luật pháp, những cơ quan có thẩm quyền
nên nghĩ đến chế định điển lệ. Điển lệ minh bạch cũng là một dụng cụ an dân.
Hoàng Đằng